(Nhân dịp phim ra rạp nên viết đu theo chơi, mà không biết nhét đâu. Thấy nó cũng có chút hơi hướm phân hồng, thui bỏ đây trước. Warning trước, vì đây là yêu hận tình thù hơn chục năm của tui, nên dài lắm nha...)
Xin nói ngay từ đầu là sự khó chịu của tui với Kiều không mới xuất phát gần đây. Nó là mối yêu hận tình thù tồn tại gần mười mấy năm đằng đẵng. :v
Có những người thương Kiều chỉ qua một vài câu thơ mỹ miều trong sách giáo khoa và hào quang chói lòa của bốn từ "văn, chương, kinh, điển"; lại có kẻ ra sức lăng mạ Kiều chỉ vì google nội dung phát hiện Kiều có thâm niên gái ngành; ấy nhưng còn có những người như tui, mê mẩn đọc hết tập truyện thơ, quay sang ngấu nghiến cuốn văn chữ bản gốc, từ đó yêu dần hoá hận.
Vì sao yêu?
Không cần bàn cãi, lý do duy nhất để tui nói riêng và đa số nói chung yêu Kiều là vì những câu chữ đẹp đẽ, sâu cay của đại thi hào Nguyễn Du. Ôi là trời, đến cả con nít lên bảy chưa hề học qua Truyện Kiều mà còn biết ngâm "Trăm năm trong cõi người ta…" thì có thể thấy những dòng thơ mang đầy tính tự sự thấm đời ấy nó tinh hoa và phổ biến đến độ nào. Tui yêu Truyện Kiều như chàng trai mới lớn yêu cô gái đẹp, bị cuốn vào bởi cảnh đẹp ý hay, vần thơ mượt mà thấm nhuần lý lẽ trải đời.
Cái lẽ đáng yêu thứ nhì, là chữ "hiếu". Này thì không cần nói nhiều, Kiều bán mình cứu cha, rõ ràng là một nghĩa cử cao đẹp vô cùng. Có thể nó không được thông minh sáng suốt, nhưng hiếu chính là hiếu, ta không thể coi khinh điều đó.
Cuối cùng, yêu Kiều vì Kiều chính là con nhà người ta, vừa đẹp vừa tài vừa phẩm cách cao thượng, dễ đồng tình và dễ cảm thương. Nó thể hiện qua việc nàng thắp nén hương cho Đạm Tiên dù chỉ là người qua đường, sau còn buồn bã khóc thương cho hồng nhan bạc mệnh. Kiều tuy có đi ngược lễ giáo hẹn thề với Kim Trọng, nhưng lại khéo bề giữ gìn bản thân, lụy tình nhưng không lụy thân. Đấy là sự kiên trinh tui đánh giá cao ở một cô gái trẻ đang ở độ tuổi xuân phơi phới, dù rất đắm đuối tình lang nhưng vẫn đủ lý trí để giữ lấy tiết hạnh của bản thân.
"Phải điều ăn xổi ở thì,
Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!"
hay
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân."
Đây là sự tỉnh táo hiếm có nơi con gái đang yêu thời đó, đặc biệt là một cô gái đa sầu đa cảm đa tình như Kiều. Sự tỉnh táo và lời lẽ từ chối khéo léo khiến chàng Kim phải nửa thua nửa nể cơ mà.
Vì cái lẽ đó, tui đã mù quáng tin rằng Kiều là một cô gái thông minh và lý trí quý vị ạ, thế nên sau này mới té ngửa ra.
Và tình yêu dừng lại ở đó.
Thế vì sao giận?
Vì Kiều bán thân nhiều, bán than lại càng nhiều hơn. 😂
Vâng, con người ta gặp cảnh cùng đường than chút thì đã có gì? Huống chi phải có những lời than thân trách phận não nề ai oán đó, ta mới biết được Kiều giữ lòng thanh cao thế nào, tiết hạnh ra sao chứ?
"Dù sao bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!"
"Xót mình cửa các, buồng khuê,
Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn, mày dày,
Kiếp người đã đến thế này thì thôi!"
Nói chung, bị Sở Khanh lừa xong, Kiều bị sang chấn tâm lý mất hết lòng tin vào cả nhân loại trừ Thúc Sinh Bạc Bà Bạc Hạnh Giác Duyên Từ Hải và Hồ Tôn Hiến, bắt đầu chấp nhận học nghề kỹ nữ để tiếp khách làng chơi. Khổ cái làm trái ngành nên nàng không ưng, thế là gượng cười cố cày ngày cày đêm để có cái đối phó sếp Tú mà thôi.
Nhưng nó lại hợp lý, sinh viên mới ra trường đi làm lúc nào chả than thân trách phận.
Chỉ là sau đó… 5 năm, 10 năm, 15 năm lên voi xuống chó… vẫn tiếp tục bán than khắp thiên hạ. Bán sỉ than nhục, bán lẻ than hèn, làm thị tỳ than khổ, đi tu than bạc, làm vợ vương chúa than nhớ nhà… Lạ là suốt quá trình đó ít thấy nàng làm gì để bớt nhục, bớt hèn, bớt khổ… Sự bi quan khiến cho Kiều buông xuôi tất cả, hoặc nói trắng ra, Kiều cũng chả biết làm cái gì ngoài việc buông xuôi. Nàng thông minh sách vở thôi, còn việc đời thì ngu bỏ mợ ra. Người ta bị lừa một đã khôn ra, còn nàng bị những bốn lần, trong đó hết hai là cùng kịch bản, trong suốt 15 năm.
Con giun xéo quá cũng quằn, nàng Kiều xéo quá đi phăng cái bền. Bền đây là bền chí kiên gan để sống tốt mỗi ngày, không đắm chìm vào đau thương để rồi biến bản thân thành nạn nhân của mọi người mọi hoàn cảnh. Kiều bền lòng để sống, nhưng lại chẳng bền nổi chí làm người, than riết thành quen đến hồi chẳng gì để than cũng ngồi than sảng. Mà toàn than cho thân!
Đấy, đích thị là tâm lý nạn nhân.
Loại tâm lý này phát sinh vì bị người ta hại quá nhiều lần, đến lúc được sống trong nhung mà vẫn nghĩ mình là nạn nhân mà sinh lòng nhỏ nhen oán hận. Đúng vậy, quý vị ạ, tui đang nói đến Hoạn Thư và những cơn ghen đi vào lòng người của "mụ ta."
Thôi giờ tui không bàn dưới góc nhìn hiện đại - nơi Kiều bị xem là trà xanh cướp chồng sai rành rành đó ra, mà bàn dưới góc nhìn của cổ nhân cho nó công bằng hơn nha.
Thời đấy thì đàn ông năm thê bảy thiếp là lẽ thường, thế Kiều theo Sinh có gì là sai?
Nói đến đây, ta phải lật lại xem vợ Sinh là ai. Hoạn Thư, con ông cháu cha, nhà mặt phố bố làm to, lại hạ mình gả cho Thúc Sinh con một nhà buôn bình thường. Ta thấy rõ ràng chàng Thúc có đủ lý do để sợ và nể vợ. Đùa, bố nó là Thượng thư Lại bộ, tương đương Bộ trưởng Bộ nội vụ ngày nay đấy mấy bác ạ, lạng quạng nó bổ cho toàn gia cạp đất! Dám mà không sợ? Sinh sợ, là sợ cái uy nhà quan, cái nếp nhà gia giáo đó, chứ có phải vì vợ mình tính hay cả ghen đâu.
Nói chung là con nhà trâm anh quyền quý, nết ăn ở nghiêm chỉnh có thừa. Theo lệ nhà Nho xưa ở Tàu và Ta, đàn ông muốn lấy vợ lẽ phải có phụ mẫu đồng ý, chính thê đồng tình đem lễ sang hỏi giúp, ấy thế mới là nếp là nền. Nếu không, cỡ nào thì cũng chỉ là mèo mả gà đồng mà thôi.
Thế cô Kiều biết không? Biết quá chứ, tài nữ mà lị, xuất thân cũng gia giáo một phép cơ mà.
Rồi Kiều chấp nhận cho Sinh chuộc thân, vốn có thể thẳng thắn yêu cầu y đường hoàng nạp nàng làm lẽ. Nhưng không, phải dan díu chán chê cả năm trời, bị ông già chồng lôi đầu ra quan bung bét mới hơi giật mình tinh tỉnh, vội khuyên Sinh về nhà xin vợ.
Thế hoá ra trong quãng thời gian kia chẳng đang tằng tịu, mèo mả gà đồng là gì? Đây là nết ăn ở của con nhà gia giáo một thời đấy chăng?
Nếu nói Kiều thân bất vô kỷ, lại càng không đúng. Xưa trong lầu xanh không làm được gì thì thôi, nhưng đã được Sinh chuộc thì đã là người lương thiện, thế sao không sống cho tròn cái đạo đàn bà hoàn lương? Kiều khéo ăn khéo nói làm xuôi lòng người mà, trước chẳng đã can được Kim, sau còn khuyên được Hải đấy thôi? Chỉ là nói lời đạo lý dễ nghe, có gì đâu mà khó nhe cái mồm? Việc nàng chấp nhận về chung một nhà với Sinh trước khi được cha mẹ và vợ cả của Sinh đồng ý đã khiến tui ngỡ ngàng vì không biết nàng Kiều lễ nghĩa khiêm nhường trong vườn thúy ngày nào đã bay màu đi đâu…? Đến đây, đầu tui lặng lẽ gắn thêm một chữ lên người nàng: tiện.
"Thế trong dầu lớn hơn ngoài,
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
Ở trên còn có nhà thông,
Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?
Sá chi liễu ngõ hoa tường?
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.
Lại càng dơ dáng dại hình,
Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.
Thương sao cho vẹn thì thương.
Tính sao cho vẹn mọi đường xin vâng."
Có người sẽ biện, thật thì nàng đã mở miệng như trên đấy thôi. Nhưng thưa, đấy chỉ toàn quanh quanh cái việc sợ bị ghen, sợ bị bỏ bị khinh, sau phó hết mọi lẽ cho Sinh, chứ đã có lời nào tỏ bày đạo làm dâu con, đạo làm tỳ thiếp? Kiều khao khát tự do, khao khát được yêu quá đỗi mà nhất thời quên mất cái đạo làm người ngay thẳng mất rồi.
Thế rồi Kiều vẹo vẹo cong cong ăn nằm lả lơi với Sinh hết một năm ròng, lên quan bung bét chán chê với cha chồng, khoe văn khoe thơ các kiểu với quan ông rồi cuối cùng cũng nhớ ra ô hay ông xã mình còn con mụ vợ ở nhà, vội vã nói với Sinh:
"Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang."
Tới đây người đọc vỗ bàn gật gù, cô Kiều được tắm tưới tình yêu no say cuối cùng cũng sắp tỉnh ra rồi! Còn biết khuyên Sinh về với vợ rồi, sắp hết "tiện" rồi làng nước ạ!
Nhưng mà...
"E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm ròng,
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
Hoặc là trong có làm sao chăng là?"
Ờ… hoá ra kêu khai đi vì biết chả thể giấu, sợ bị xử chớ chả phải hổ thẹn gì sất. 😂
Âu thì cũng chỉ một cô bé ngux ngox lụy tình, trách sao đành?
Nhưng đọc càng về sau, càng đành. 😁
"Mắng rằng: Những giống bơ thờ quen thân!
Con này chẳng phải thiện nhân,
Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào."
Thế mắng có oan không? Nhưng Kiều thì thấy oan lắm đấy.
"Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
Phong trần kiếp chịu đã đầy,
Lầm than lại có thứ này bằng hai.
Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan."
Vâng, lại than, nhưng than hơi sảng. Đã từng bị đàn ông chà đạp chốn phong trần, bị Tú Bà đánh đập giáo huấn, về đây làm nô tỳ mới bị ăn ba chục cây, chưa bị lột áo lột quần cạo đầu bôi vôi đã quỳ than bạc mệnh lầm than bằng hai hồi trước. Ơ thế hoá ra nghề làm đĩ vẫn chưa là khổ nhất trong đầu Kiều, làm tỳ khổ hơn nha, đói mà.
Rồi đấy, vì chăm chỉ bán than nên Kiều được thăng chức thành thị tỳ đưa đến hầu Hoạn Thư. Thể theo đạo làm nhỏ trong nhà, lẽ ra như thế thì Kiều nên cảm thấy cảm kích vợ cả mới đúng. Nhưng không, chuỗi ngày làm thị tỳ của Kiều lại được cho là vô cùng uất nhục. Nên nhớ, thị tỳ là nô bộc lo các sự bên cạnh chủ, quần áo trâm cài, pha trà các kiểu, nào có phải khổ sai gì cho cam, vợ lẽ ngày xưa cũng phải hầu vợ cả những lẽ ấy đấy. Ừ thì lâu lâu bị bắt ra biểu diễn văn nghệ, nhưng người ta mến tài người ta kêu đàn nghe chơi thôi chứ có bảo thoát y múa cột đâu mà nhục mà căm dữ vậy? Nên nhớ, Nguyễn Du chưa bao giờ dùng lời lẽ trào phúng để miêu tả lời ăn tiếng nói của Hoạn Thư, nghĩa là cô này khen Kiều là khen thật, mến tài là mến thật.
"Sớm khuya khăn mắt lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân."
Thế thì vì sao Kiều căm Hoạn Thư như vậy, dù Thư chưa bao giờ đánh đập gì nàng, thậm chí còn có khi thương tài tiếc hoa nương tay bớt đi khuôn phép?
À, là vì bị khăm một cú quá cay các bác ạ. Sự thể nó như này, cô Thư bắt cô Kiều ra đánh đàn cho chồng nghe. Đôi uyên ương khổ mệnh gặp nhau trong bẽ bàng nhưng sợ không dám nhận nhau, gần thế mà xa thế đau khổ khôn cùng cắt từng đoạn ruột. Thấy chồng thương bồ nhí đến mếu, cô Thư giả ngu mắng cô Kiều dám đàn sao để chồng bà buồn bà đánh cho, thế là Sinh đành ngoác miệng giả cười. Uyên ương khổ mệnh chỉ còn biết rỉ máu trong lòng, Kiều cay đến độ mà phải thầm thốt lên rằng:
"Chước đâu có chước lạ đời?
Người đâu mà lại có người tinh ma?
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi."
Kiều hận Thư không vì lẽ ác, mà vì Thư chia uyên rẽ thúy, khiến nàng và tình lang lâm vào tình thế bẽ bàng. Ba chữ "lứa đôi ta" thốt ra sao mà dĩ nhiên quá, Kiều đã quên mất đến làm thiếp mình cũng không danh chính ngôn thuận hay sao? Kiều chỉ thấy người ta ác với mình, chứ hoàn toàn mù tịt mình lỗi chỗ nào.
"Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?"
Ăn nói với bà vợ cả bị nàng và tình lang vượt mặt không lo, kêu giời mần chi khộ ông giời quá...
"Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy ai nhìn được ai."
Kiều lại hận Thư, là vì sợ cái hiểm, cái cay của con người trí mưu cao hơn mình gấp bội, một người mà đến cả cọng lông của nàng dù chưa rớ qua, cũng đủ khiến lòng nàng máu thịt đầm đìa. Đau vì nhục, vì nhớ Sinh, và vì thương thân, oán đời. Lỗi là tại tất cả, trừ nàng. Tâm lý nạn nhân ngay lúc này, đã đạt đến đỉnh điểm.
Thế là uất quá, nàng dâng tờ cầu Thư cho đi tu. Thư thương tình cho vào chùa tư gia ở, rồi thì việc gì đến cũng đến. Thư giả vắng nhà, Sinh đã vội chui rào tìm người ngọc. Kiều lúc này đã quy y cửa Phật, chẳng ai ép, tự động chọn lấy, đáng ra nên giữ tâm thanh tịnh, học theo cô Lan cắt đứt chuông chùa. Nhưng không, nàng vẫn ở lại tám chuyện với Sinh, không vì tự tình, mà để cùng luyện bán than đại pháp.
Ờ, chắc tại chùa nhà Thư không có treo chuông, nàng lại đang mắc bán. Nói chung là đam mê rồi.
"Cùng nhau kể lể sau xưa,
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra,
Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào."
Đây là nghiệp tu nửa thì à? Yêu lắm thương lắm xa lắm đau lắm thì khi dâng tờ chẳng nói muốn về làm thiếp cho xong? Lại đòi đi tu rồi ra đây nắm tay kể lể? Cô Kiều đoan chính hiểu lễ bên vườn thúy của tui đâu rồi…? (Gầm rú tập hai)
Quê quá, Kiều e lệ hỏi hoa tì là Thư đến bao giờ, được biết tiểu thư đã đến từ lâu, buồn chán đứng xem "lứa đôi ta" nắm tay kể lể thì Kiều xám hồn.
"Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
Ấy mới gan ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thực tang bắt được dường này,
Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
Thế mà im chẳng đãi đằng,
Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!
Giận dầu ra dạ thế thường,
Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu!"
Bị bắt quả tang đầu tiên là phải vừa chửi vừa sợ người bắt tang trước đã, còn nàng vô tội nha.
"Thân ta ta phải lo âu,
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
Ví chăng chắp cánh cao bay,
Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!"
Thật thì đến đây tui phải ngồi suy nghĩ lại sự sợ hãi này của Kiều có chính đáng không, càng ngẫm càng thấy không chính đáng. Nếu sống ngay thẳng đàng hoàng, tu cho ra tu thì hà cớ phải sợ có ngày bị "bẻ"? Hoạn Thư là ai? Là con ông cháu cha đấy, muốn "bẻ" nàng thì nàng đã lụi từ lâu, còn ngồi đây miệng nam mô bụng một bồ than được hả?
Kiều luôn được giới đánh giá sau này cho là thông minh khéo léo vì lường ra được mối bất hoà giữa mình và vợ cả về sau. Cười chết, Tuesday IQ 75 cũng nghĩ ra được chuyện ấy nha, không cần thông minh đâu. Người thông minh thật sự, là phải nhìn ra được tâm tính vợ cả rồi liệu mà xin tội để được vào nhà, ngúng nguẩy đi tu rồi hẹn hò sau lưng chi vậy, thích chơi kích thích hả? Hay vì cong vẹo lâu quá nên ngấm chữ "tiện" vào cốt luôn rồi?
Phải chăng, Kiều trốn không vì sợ Thư, mà sợ bản thân sẽ có ngày làm ra chuyện dan díu khiến người muốn "bẻ"?
Tâm lý nạn nhân, sĩ diện của con nhà có học mà bị nọc ra làm tỳ, tình lụy với Sinh trong Kiều đã toàn toàn che lấp cái sự biết điều biết lỗi biết ơn lẽ ra nên có nơi một người đàn bà lễ nghĩa gia giáo đàng hoàng, biến nàng thành một nhi nữ thường tình nhỏ nhen ngu độn, từ đó mới nảy ra loại ý nghĩ sợ vợ cả đến độ phải bỏ trốn khỏi chùa, trước khi đi còn không quên chôm chuông vàng khánh bạc của chùa đem theo lưu niệm. 🤣
Đến đây, có người sẽ nói tui bẻ cong ý nghĩa sau câu chữ cụ Nguyễn. Thưa không, chính cụ cũng có lúc cho Kiều tự nhận định bản thân như thế mà.
"Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen."
Đấy là vào lúc Kiều đã "lên voi" nhờ Từ Hải, võng lọng cao sang kéo quân về lập toà xử tội họ Hoạn. Tuy hoàn toàn trên cơ, Kiều lại bị Hoạn Thư - lúc bấy giờ sa cơ lỡ vận - dùng lời lẽ khéo léo xoay cho không sao trị được, cuối cùng phải tự nhận ừ mình mà xử nó, hoá ra lại thành đứa nhỏ nhen sao…?
Cơ mà trước khi nếm chiêu đầu lưỡi của Thư, Kiều cũng trẻ trâu cay cú được vài câu lấy mẽ:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!"
Trong phân đoạn này, có thể nói Kiều đã xử sự vô tình vô lý. Chọn lựa mèo mả là nàng, chọn lựa đi tu là nàng, chọn lựa ôm của bỏ trốn là nàng, thế sao lại trách con người vợ cả kia cay nghiệt? Đạo hoàn lương nàng đã không tròn, đạo làm lẽ lại càng không trọn, suốt cả quãng đường kia nào ai gây tội cho nàng ngoài chính bản thân? Ta thấy Kiều cũng rất cố gắng ân oán rạch ròi, đối với Sinh thì "gấm trăm cuốn bạc nghìn cân" để đền câi ơn cứu kiếp phong trần, lại quên mất chính vì sự bạc nhược của kẻ đấy mà mình mới lâm vào vòng lầm lỗi.
"Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là!"
Tình cảm ơn nghĩa cũng không quên xéo xắc thêm vợ chàng:
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!"
Hay cho câu "kẻ cắp bà già gặp nhau," được thốt ra một cách mỉa mai, khinh bỉ. Thế ai là kẻ cắp, ai là bà già? Bị Hoạn Thư quay cho vã ra còn dám tự xem là kỳ phùng địch thủ? Từ đầu đến cuối, dù ở cơ dưới hay nằm cơ trên, Kiều đều thua trí người đàn bà này hết.
Với, chuông vàng khánh bạc của chùa người ta đâu? Trả ơn báo oán mà nuốt mợ nó mấy cái chuông của nhà chùa… Tội lỗi, tội lỗi...😂😂😂
Lại nói, cho dù là trong xã hội xưa hay nay, Kiều có quyền hạch tội Thư sao? Không hề. Muốn tu cho tu, muốn trộm muốn trốn cho luôn không thèm đuổi bắt, chẳng báo ơn thì thôi, còn mang dạ nhỏ nhen ra toan báo oán. Đây chính là cái phần "đen" và "tiện" nhất nơi cô Kiều của Tố Như. Con mắt nhìn người quá nông dẫn đến tin sai người, nhìn sai việc, phán sai tình. Sự hận thù của Kiều đối với Hoạn Thư là một mối hận hèn mọn và vô luân vô lý.
Cụ dĩ nhiên nhìn ra điều ấy, mới thuận theo tình huống mà cho Hoạn Thư đối đáp khiến Kiều không sao bắt bẻ, cuối cùng tha bổng không báo oán chi được nữa.
Có thể nói đây là phân đoạn chứng tỏ đẳng cấp đỉnh cao của Nguyễn Du. Cụ không nương theo Thanh Tâm Tài Nhân mà xây dựng một Hoạn Thư ác ôn tàn bạo, hay một Thúy Kiều chính nghĩa trả thù, mà là chút đen chút trắng làm sáng lên giá trị nhân văn giữa quan hệ hai người đàn bà đáng ra phải đảo trời lật đất vì đàn ông, ấy thế mà bên lại mến tài tha cho, bên thì vỡ ra lý lẽ mà không còn muốn oán. Hoạn Thư vì ghen gây oán, Kiều cũng oán người xuất phát từ ghen, cái nỗi ghen hèn mọn và không chính đáng đã chuyển hoá thành nhục nhã ê chề để rồi biến dần thành hận thù vô lý. Phải mà cụ Nguyễn cho Thúc Sinh một ít vị đắng, thay vì để gã đứng đó bàng quan nhìn hai ả xử nhau. Nhưng thôi, nói cho cùng, cụ cũng đàn ông, đồng cảm cho phận đàn bà đến tận nỗi này cũng đã xem như hết lòng hết dạ. Đời này ngoài Nguyễn Du, đã có văn nhân thi sĩ cận đại trung đại nào có tầm có tâm như thế?
Kiều cả đời bị lụy bởi tình, nhưng lại lỗi đạo làm thê.
"Sớm đào tối mận lân la,
Trước còn trăng gió sau ra đá vàng."
Bỏ qua rung động đầu đời với Kim Trọng, Thúc Sinh là tình yêu mãnh liệt của Kiều. Họ đồng điệu không những về tinh thần mà lẫn thể xác, đến nổi che mờ mắt Kiều khỏi lẽ ăn ở phải đạo trên đời, chấp nhận gằm đầu sống đời không minh bạch với chàng. Thúy Kiều lụy Thúc Sinh, ta phải chỉ thẳng ra là thế, đã trên hai lần Kiều than thở nhớ nhung vì phải xa cách, rồi chỉ non thề biển, rồi cắt tóc hẹn thề, rồi cũng không ít lần vì bị Hoạn Thư "chia uyên rẽ thúy" mà đau lòng sinh oán, chỉ cho đến khi Sinh dứt khoát dứt tình, nàng mới xem như buông bỏ.
Đến tận sau này khi đã yên bề gia thất với Từ Hải, khi gặp lại đền ơn Sinh, Kiều vẫn phải nghẹn ngào thốt lên rằng.
"Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?"
Tại ai mà thiếp phụ chàng? Tại ai? Tại giời, tại Thư, tại số phận, nói chung tại tất cả nhưng không phải tại nàng. Bể dâu gặp lại mà vẫn đong đầy nghĩa như vầy, Kiều rõ ràng là người con gái đa mang tình nghĩa, nhiều đến độ có khi hoá lụy.
Lụy đây không phải là lụy trai nha các bác, mà là sự yếu đuối trước chữ tình. Vì nàng khát, nàng cầu, nên nàng rất quý nếu có người đem ra dâng tặng. Thế nên những người có ơn với nàng, nàng vô cùng hậu đãi.
Khổ cái, cái tình của nàng dành cho vị anh hùng đã đem đến cho nàng cuộc "lên voi" huy hoàng nhất thế kỷ, lại chẳng đủ lớn để gánh gồng cái đạo làm thê.
Thấy người đem bạc đem vàng ra chiêu, nàng vì những lẽ rất ư nhi nữ tầm thường mà xiêu ngay, dù rằng biết rõ chí chồng là muốn bá vương một cõi mặc sức tung hoành.
Vì sao nói thế? Vì Kiều đã vịn vào vinh hiển cá nhân, vào nỗi nhớ nhà và lòng riêng nhi nữ để khuyên chồng ra hàng triều đình.
"Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha."
Có câu nào trên đây là nghĩ cho chồng không? Không. Tui giận Kiều chính vì cái tâm lý nạn nhân xuất hiện ngay cả ở thời điểm không nên có nhất. Thiết nghĩ vinh hoa phú quý và cực đỉnh giàu sang mà Từ Hải dành cho nàng đã chữa khỏi cái tật bán than cố hữu rồi. Ồ nhưng không, vẫn đam mê buôn bán các bác ạ. Xuất giá tòng phu, nàng lại khuyên phu nương theo mình vì những lẽ riêng, ấy xem như lỗi đạo làm thê.
Về sau tuy cũng có người biện hộ rằng vốn dĩ nàng đang cứu dân cứu nước, và Từ công cũng chẳng thể chọi lại triều đình được lâu. Nhưng thế thì đã sao? Ơn nghĩa với ai mặc kệ, với chồng, nàng vẫn là lỗi đạo.
Cuối cùng, cái chết thê thảm của người anh hùng cái thế kia cũng đã làm Kiều tỉnh ra, lần đầu tiên mở miệng nhận lỗi về mình. Đúng là một phương thuốc đắt giá.
Nhưng cũng được một hồi thôi ạ. Sau khi bị bắt hầu đàn cho Hồ Tôn Hiến - kẻ thù giết chồng, nàng lại ngứa nghề ngồi hát sầu than thân…
"Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
Cung cầm lựa những ngày xưa,
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!"
Dây đàn có thể đàn đến đứt tay nhỏ máu, giá mà nàng dứt ra thắt cổ Hồ công, hay cầm mợ cây đàn đập lên đầu hắn cũng đỡ làm lòng tui tan nát. Giời hỡi cái đạo làm thê, vào tay kẻ nhược chán chê thế giời…?! Tuy biết Kiều là đang xử sự có lễ, nhưng đến giờ này mà còn không ít nhất lồng lên nhiếc mắng cái thằng giết chồng thì thôi, sự văn nhược đã thành ra ê chề quá đỗi.
Cùng là phận đàn bà, tui cảm thương Kiều được đến nửa phần đầu. Nhưng từ lúc Kiều chọn lựa thoát chốn phong trần đi theo Thúc Sinh, tui đã không còn ưa nổi. Tuy nó hợp lý, nhưng cách nói năng hành xử của Kiều đã vẽ nên hình ảnh một người đàn bà tuy giữ lòng trinh bạch, nhưng lại chọn sống vẹo cong và luôn đổ lỗi cho đời. Sự non nớt trong con mắt nhìn người và ích kỷ trong suy nghĩ, sự nhu nhược trước bất công và bi quan trong thái độ sống, có khi tui nghĩ sai chăng, lẽ nào một cây bút thiên tài như Nguyễn Du lại tạo nên một nhân vật tầm thường như vậy?
Cho nên, mỗi năm tui lại đọc Truyện Kiều lại một lần, xem có phải là do mình thiển cận nên cảm không nổi cô Kiều hay không, nhờ thế mà phát hiện ra tinh túy của Truyện Kiều hoàn toàn không nằm ở cô Kiều. Nàng chỉ là một công cụ Tố Như dùng để phản ánh hiện thực tàn ác của xã hội phong kiến trước số phận người phụ nữ, trước chữ trinh và chữ tình, trước chữ tài và chữ phận.
Kiều phải nhược, phải lụy, thì chúng ta mới có được một Sở Khanh để phỉ nhổ, một Tú Bà để căm hờn và một Từ Hải để tôn vinh như ông chồng quốc dân. Không phải Nguyễn Du không đủ sức tạo nên một người phụ nữ mạnh mẽ theo tiêu chuẩn hiện đại đâu ạ, bằng chứng chính là Hoạn Thư rành rành ra đấy. Nhưng Kiều của cụ thì chỉ được phép đến thế mà thôi, nếu cho Kiều cái trí cái dũng của Thư, câu chuyện hẳn đã kết thúc ngay ở chương đầu.
Cho nên, dù có ghét cô Kiều đến độ nào, đối với Truyện Kiều tui vẫn rất mực yêu quý vì nhiều lẽ khác nhau. Thật ra, nhân vật có đen có trắng, có thanh có tiện trong phần tính cách như Kiều bình thường tui rất thích, vì nó thực tế và dễ đồng cảm. Chỉ là giáo dục gia đình và tư tưởng hình thành trong môi trường ngày nay không cho phép tui đồng tình với những phần "đen" phần "tiện" đó.
Nên thôi, ghét là ghét.
Tui viết bài này thứ nhất là để sau này lỡ miệng gọi Kiều là "con" ở đâu đó thì còn có cái ném link qua giải thích. Sáu chữ "nhân, vật, văn, học, kinh, điển" nó nặng quá đi, nhiều người đội lên đầu mà thờ nên tui cũng không muốn vô tình động chạm tín ngưỡng người khác, rồi dẫn đến những cuộc tranh cãi vô ích vô vị.
Có thể sẽ có người nhạo tui đọc sai, hiểu sai cô Kiều, hoặc chưa đủ "chín" để cảm được cô ta; nhưng không ai có thể trách tui chưa từng cố gắng hoặc cố tình đi ngược đám đông ra vẻ cá tính cá chình gì đó. Đa phần những thứ tui ghét, đều là do tìm hiểu kỹ quá mà ra.
Lời cuối, là gửi các bạn chỉ mới lướt sơ google mà đã phán Truyện Kiều tôn vinh nghề làm đĩ và những con phò cướp chồng ngoài kia: Xin các bạn hãy chịu khó đọc lại đi ạ. Chỉ mất khoảng ba tiếng thôi, ba ngàn mấy câu thơ cũng không dài lắm đâu. Nhân vật Kiều có thể từng làm đĩ, từng làm trà xanh "giật" chồng, nhưng Truyện Kiều không hề tôn vinh những thứ ấy. Xin đừng khiến vị đại thi hào của chúng ta trở nên rẻ rúng như thế.
Tui nhắc lại một câu đã viết bên trên, đời này ngoài Nguyễn Du, đã có văn nhân thi sĩ cận đại trung đại nào có tầm có tâm như cụ? Nguyễn Công Trứ cười Kiều là đáng kiếp, Huỳnh Thúc Kháng mắng Kiều là tà dâm, chỉ có Tố Như là một lòng thiết tha với số phận đàn bà trong câu chữ của mình. Chỉ một câu cụ mượn lời họ Kim để thốt lên "Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường," cũng đủ để nói lên nhân cách cao thượng của một bậc thi hào mang tư tưởng phóng khoáng vượt thời.
"Tri kỷ quốc dân," chính là đây chứ đâu.
*Tố Như: tên tự của Nguyễn Du.
Nhấn để mở bình luận
Đời Ếu Như Mơ - Sự Đời Ếu Ai Ngờ